Ống dẫn tinh có đường kính ngoài khoảng 2-3mm, nhưng do có thành rất dày nên đường kính trong của ống chỉ khoảng 0,3- 0,5mm. Vì vậy, phẫu thuật nối ống dẫn tinh thực hiện dưới mắt thường gặp nhiều khó khăn và tỉ lệ thành công thấp. Nhờ kính hiển vi phẫu thuật phóng đại hình ảnh trong mổ từ 6 đến 32 lần, cuộc phẫu thuật sẽ dễ dàng hơn.
Vi phẫu thuật giúp cải thiện chất lượng và số lượng tinh trùng (vi phẫu thuật điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh) hoặc tái lập lại lưu thông đường ống dẫn tinh (vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh-ống dẫn tinh, vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh-mào tinh).
Ngoài ra, vi phẫu thuật lấy tinh trùng (từ mào tinh hoặc từ tinh hoàn) giúp những cặp vợ chồng vô sinh có con sinh học qua những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh
Về phẫu thuật, dù theo phương pháp mổ nào, với mắt thường hoặc qua nội soi, phẫu thuật viên sẽ khó nhận biết được động mạch tinh do kích thước quá nhỏ và nhịp đập rất nhẹ.
Giãn tĩnh mạch thừng tinh (GTMTT) là sự giãn và xoắn bất thường của tĩnh mạch tinh. Bệnh chiếm 15% ở nam giới. GTMTT là nguyên nhân của 35% trường hợp vô sinh nam nguyên phát và 75%-81% trường hợp vô sinh nam thứ phát. Phần lớn các trường hợp GTMTT không có triệu chứng.
Ở người trưởng thành, GTMTT thường được phát hiện khi bệnh nhân khám vô sinh. Ở thanh thiếu niên, bệnh nhân đến khám chủ yếu vì đau tức, khó chịu ở vùng bìu với đặc điểm: giảm khi nằm nghỉ, tăng khi ngồi lâu, đứng lâu hoặc vận động nhiều.
Bệnh nhân cũng có thể đến khám vì thấy bìu to hoặc thậm chí nhìn thấy các mạch máu ở bìu giãn to hằn lên dưới da. Điều trị bằng thuốc không có hiệu quả đối với GTMTT.
Vì thế xu hướng hiện nay là dùng kính phóng đại để thực hiện vi phẫu thuật. Ưu thế của vi phẫu thuật là dễ nhận biết và bảo tồn động mạch tinh và hệ bạch mạch, tránh biến chứng teo tinh hoàn hoặc tràn dịch tinh mạc; không bỏ sót những tĩnh mạch tinh, tránh tái phát.
Hiện nay mổ vi phẫu là "tiêu chuẩn vàng" trong điều trị GTMTT. Chỉ định phẫu thuật khi GTMTT lớn gây khó chịu hoặc đau tức bìu kéo dài, GTMTT ảnh hưởng đến tinh hoàn (giảm thể tích tinh hoàn) và GTMTT ảnh hưởng đến tinh dịch đồ (ở nam giới trên 17 tuổi và các trường hợp vô sinh nam).
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, sau phẫu thuật, 80% bệnh nhân có tinh dịch đồ cải thiện đáng kể, 45% bệnh nhân có vợ thụ thai.
Nối ống dẫn tinh
Thắt ống dẫn tinh triệt sản là biện pháp kiểm soát sinh sản bền vững, kỹ thuật đơn giản, an toàn, chi phí thấp và có hiệu quả tránh thai cao. Đây là phương pháp tránh thai được chấp nhận và thực hiện rộng rãi trên thế giới.
Tuy nhiên, một thực tế là sau thắt ống dẫn tinh triệt sản khoảng 2%- 6% những đối tượng này có nhu cầu phẫu thuật nối lại ống dẫn tinh để phục hồi sự lưu thông ống dẫn tinh. Lý do là họ muốn có thêm con vì những rủi ro như con mất, vợ mất, tái kết hôn… và một số trường hợp do những ảnh hưởng tâm lý hoặc đau tại chỗ thắt.
Nếu thời gian thắt ống dẫn tinh hơn 15 năm thì hiệu quả phẫu thuật sẽ thấp hơn nhiều. Nói chung, vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh cho kết quả ống dẫn tinh thông thương là 70-97%, và tỉ lệ có con sau phẫu thuật là 30-62%.
Vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh-mào tinh
Vô tinh do bế tắc mắc phải thường gặp nhất là do tắc ở mào tinh. Ngoài ra, những trường hợp thắt ống dẫn tinh triệt sản lâu ngày có thể gây ra tắc ở mào tinh thứ phát. Vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh-mào tinh cho kết quả thành công cao hơn và hiệu quả kinh tế hơn thụ tinh nhân tạo.
Tỉ lệ thông thương sau mổ đã gia tăng đáng kể trong vài năm gần đây nhờ những tiến bộ của kỹ thuật khâu nối vi phẫu, nhất là kỹ thuật khâu tận-bên kiểu lồng tam giác ba mũi và kiểu lồng hai mũi. Tỉ lệ thông thương sau mổ từ 70-80%, tỉ lệ có thai từ 25-45%.
Lấy tinh trùng
Trong cả hai trường hợp vô sinh không có tinh trùng do tắc hay không do tắc, đều có thể phẫu thuật lấy tinh trùng để thực hiện thụ tinh nhân tạo bằng kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn.
Ống dẫn tinh có đường kính ngoài khoảng 2-3mm, nhưng do có thành rất dày nên đường kính trong của ống chỉ khoảng 0,3- 0,5mm. Vì vậy, phẫu thuật nối ống dẫn tinh thực hiện dưới mắt thường gặp nhiều khó khăn và tỉ lệ thành công thấp.
Ngày nay, nhờ kính hiển vi phẫu thuật phóng đại hình ảnh trong mổ từ 6 đến 32 lần, cuộc phẫu thuật sẽ dễ dàng hơn, phẫu thuật viên có thể khâu nối chính xác lớp niêm mạc của lòng ống dẫn tinh dẫn đến tỉ lệ thành công cao hơn nhiều.
Thời gian trung bình cho một ca vi phẫu nối lại ống dẫn tinh hai bên là 2-4 giờ. Kết quả của phẫu thuật phụ thuộc vào tay nghề của phẫu thuật viên, phương tiện kỹ thuật và đặc biệt là thời gian đã thắt ống dẫn tinh.
Tuy nhiên, với trường hợp không có tinh trùng do tinh hoàn giảm chức năng sinh tinh nặng (không do tắc nghẽn), khả năng lấy được tinh trùng thấp hơn, chất lượng tinh trùng kém hơn, tỉ lệ thành công thấp hơn và tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở con sinh ra cao hơn.
Vi phẫu thuật lấy tinh trùng từ mào tinh: Là phương pháp lấy tinh trùng qua phẫu thuật mào tinh với hỗ trợ của kính hiển vi phẫu thuật. Bệnh nhân được gây tê tại chỗ và phối hợp với tiền mê.
Sau khi cắt màng bao mào tinh, bộc lộ búi ống mào tinh, kính hiển vi phẫu thuật được sử dụng để thấy rõ từng ống mào tinh riêng biệt, qua đó vi chọc hút trực tiếp vào ống mào tinh được lựa chọn để lấy tinh trùng.
Tỷ lệ thành công của kỹ thuật lấy tinh trùng này cao, tinh trùng thường thu được nhiều và có thể trữ lạnh. Kỹ thuật này chỉ thực hiện với trường hợp không có tinh trùng do tắc.
Vi phẫu thuật lấy tinh trùng từ tinh hoàn: Kỹ thuật này tương tự sinh thiết tinh hoàn có sự hỗ trợ của kính hiển vi phẫu thuật. Phẫu thuật bộc lộ tinh hoàn và lấy những mẫu mô tinh hoàn dưới phóng đại của kính hiển vi phẫu thuật.
Với kính hiển vi phẫu thuật, chỉ cần lấy những mẩu mô thật nhỏ với những ống sinh tinh được thấy rõ và tránh được nguy cơ tổn thương những mạch máu nhỏ trong tinh hoàn.
Các mẫu thu được sẽ được tách nhỏ và lấy tinh trùng từ các ống sinh tinh. Kỹ thuật này có thể thực hiện cho cả 2 trường hợp không có tinh trùng do tắc hoặc không do tắc.
BS. Phạm Nam Việt – Đơn vị Nam học, BV ĐH Y Dược TP.HCM
(Theo Bee)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét